Wednesday, April 9, 2008

Tương lai nào
cho phong trào dân chủ Việt Nam?

Nguyễn Vũ Bình

Tôi đã có độ lùi cần thiết về thời gian để xem xét các vấn đề của phong trào Dân chủ (PTDC). Dự án của Cụ Hoàng Minh Chính và của tôi đã không được mọi người quan tâm đúng mức. Nhưng chỉ có thông qua thái độ của mọi người đối với Dự án tôi mới có thể tìm hiểu và biết được bức tranh của PTDC hiện nay và những vấn đề rất quan trọng đặt ra đối với PTDC. Và thật mừng là Dự án đó của chúng tôi vẫn còn nguyên giá trị nếu được tái khởi động trên cơ sở sự tham gia đông đảo của mọi người với một quyết tâm cao.

Phần I: Hiện tình phong trào Dân chủ Việt Nam.

Một vài nét về tình hình đất nước:

Sau một năm Việt Nam vào WTO, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng 8,44%, mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt 43,64 tỉ đô-la, tăng20%. Đầu tư nước ngoài đạt 20,3 tỉ đô-la. Cam kết viện trợ ODA đạt 5,4 tỉ đô-la… năm 2007, Việt Nam được bầu là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Và theo báo chí quốc doanh, thế và lực của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Gần đây cuộc hội thảo “Việt Nam ngôi sao đang lên ở Châu Á” do tạp chí Nhà kinh tế của Anh phối hợp với Việt Nam đứng ra tổ chức càng làm cho dàn đồng ca báo chí quốc doanh khó khăn trong việc lựa chọn từ ngữ để bốc thơm chế độ. Các ý kiến phản biện tập trung vào tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ thực hiện vốn đầu tư nước ngoài (năm 2000 cam kết 2,6 tỉ đô-la, thực hiện 2,2 tỉ đạt 92%; năm 2007 cam kết 20,2 tỉ đô-la thực hiện 4,6 tỉ đạt 24%), các vấn đề xã hội như tắc đường, ô nhiễm môi trường, vệ sinh thực phẩm vv… “2007 là năm đầu tiên kinh tế tăng trưởng mạnh, nhưng đời sống của đại đa số người dân lại không tăng, nhiều nơi còn giảm…Đặc biệt, lạm phát tăng đến 12% trong đó lương thực, thực phẩm tăng đến 21% đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống người nghèo” (Lê Đăng Doanh - Nghị sự kinh tế năm 2008: Nhìn thẳng vào sự thật - Tuổi trẻ cuối tuần số 1 -08 ra ngày 6/01/2008 trang 10).

Quan điểm của người viết bài này là xã hội Việt Nam hiện nay đang phân hoá vô cùng mạnh mẽ để hình thành nên hai tầng lớp rõ rệt: tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Trong khi tầng lớp thống trị đang ngày càng ý thức được những việc làm của mình thì tầng lớp bị trị đang quằn quại, vật lộn với công cuộc mưu sinh mà không hiểu được tại sao cuộc sống của mình lại khổ cực như vậy. Điều đáng tiếc là những người có lương tâm, những người đấu tranh Dân chủ chưa có sự đoàn kết cũng như những đường hướng rõ rệt để giúp cho tầng lớp bị trị hiểu được căn nguyên nỗi thống khổ của họ cũng như động viên, tổ chức họ đấu tranh dành lại tương lai của mình.

Bức tranh của Phong trào Dân chủ Việt Nam:

Để có thể hiểu được bức tranh của PTDC Việt Nam, chúng ta có thể tạm chia tất cả các hoạt động Dân chủ thành các nội dung lớn và xem xét từng nội dung một. Theo cá nhân tôi, tạm thời có ba nội dung lớn là những hoạt động nhằm nâng cao dân trí, động viên khích lệ tinh thần yêu nước, khuyến khích nhân dân (nhất là giới trí thức và những người trẻ tuổi) tham gia vào PTDC; Những hoạt động lên án, tố cáo chế độ kết hợp với vận động và tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế cho PTDC; cuối cùng là những hoạt động với mục tiêu kết hợp giữa những người đấu tranh Dân chủ, tập hợp lực lượng. Đương nhiên sự phân chia này rất tương đối và không thể không còn nhiều thiếu sót.

1/ Những hoạt động nhằm nâng cao dân trí, khích lệ tinh thần yêu nước

Đây là những hoạt động chính, quan trọng của hầu hết các tổ chức và các cá nhân tham gia PTDC. Từ những sụ thật lịch sử được phanh phui, những huyền thoại bị bóc trần, PTDC đã dựng lại chân dung chế độ Cộng sản Việt Nam, chân dung Đảng Cộng sản VN và chân dung lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam một cách trung thực, chính xác. Có thể nói đây là thành tựu rất lớn của PTDC Việt Nam trong những năm qua bởi vì thông qua việc chiêm ngưỡng những chân dung này, tất cả những người đấu tranh Dân chủ và những người có cảm tình với PTDC đều thống nhất một mục đích với quyết tâm cao: cần phải giải thể chế độ Cộng sản Việt Nam hiện nay.

Không chỉ có việc khôi phục lịch sử và giải mã các huyền thoại, PTDC Việt Nam những năm qua cũng đã liên tục theo sát tất cả các diễn biến kinh tế, chính tri, xã hội và văn hoá của đất nước và kịp thời thông tin, nhận định, bình luận vạch ra những dối trá, bịp bợm trong tuyên truyền của hệ thống báo chí quốc doanh VN. Cho tới hiện nay thì hầu như không một sự lắt léo, bịp bợm và thủ đoạn nào trong tuyên truyền của ĐCS và Nhà nước VN không bị vạch mặt và phát hiện kịp thời. Những việc làm này theo thời gian sẽ cung cấp cho những người nghe, người đọc và người xem một cách nhìn, cách đọc những nội dung thông tin tuyên truyền của báo chí Nhà nước Việt Nam. Một nội dung rất quan trọng khác là việc đưa thông tin về các bài viết, những hành động, lời nói, những phiên toà kèm theo những diễn biến xung quanh phiên toà về các nhà Dân chủ VN đã có tác dụng rất lớn khích lệ tinh thần yêu nước, động viên khuyến khích giới trí thức và những người trẻ tuổi tham gia vào PTDC.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhìn rõ giới hạn của những hoạt động này cũng như những han chế đã xảy ra đối với PTDC trong thời gian qua. Giới hạn khó vượt qua nhất là những thông tin này rất khó đến được với tầng lớp người lao động ở cả nông thôn và thành thị. Do thời gian làm việc dai và cường độ lao động rất cao nhưng thu nhập thấp, cộng với việc Nhà nước Việt Nam chủ động phá hoại, ngăn chặn thông tin, những công nhân và nông dân không thể tiếp cận được với những thông tin trung thực và bổ ích đối với họ. Còn đối với giới trí thức và những người trẻ tuổi, sự thờ ơ cố hữu đối với tình hình đất nước và những bức tường lửa đã làm hạn chế đi rất nhiều hiệu quả của những hoạt động này. Thời gian qua cũng đã chứng kiến những diễn biến, sự việc không hay trong nội bộ PTDC trên các diễn đàn. Vẫn biết là bất kỳ một cộng đồng nào (kể cả cộng đồng mạng) cũng có thể có những mâu thuẫn, xung đột nhưng khi thiếu đi sự kiểm soát bản thân và không có sự tâm niệm phải đặt lợi ích của phong trào lên trên cá nhân, tổ chức chúng ta đã có những hành động lời nói làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến PTDC. Đáng mừng là trong thời gian gần đây những việc đó đã không còn xuất hiện nhiều như trước.

2/ Những hoạt động lên án, tố cáo chế độ cùng với việc vận động tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế đối với PTDC

Là một trong những nội dung chính trong hoạt động của PTDC, những hoạt động tố cáo chế độ cùng với việc vận động tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế đã đạt được những thành công rất quan trọng: trước hết PTDC Việt Nam đã thiết lập được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với các tổ chức đai diện cho các lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới. Có thể nói, mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với Chính phủ, Quốc hội và chính giới Hoa Kỳ là trọng tâm trong hoạt động quốc tế vận được khai thác rất hiệu quả. Biểu hiện rõ nhất là việc Tổng thống và Phó Tổng thống Hoa Kỳ tiếp kiến bốn nhà đối lập Dân chủ tại Nhà trắng, đồng thời Hoa Kỳ đã cử các phái đoàn đi tìm hiểu về tình hình Dân chủ và Nhân quyền tại Việt Nam. Nghị viện châu Âu, các chính phủ Dân chủ châu Âu và trên thế giới cùng với các tổ chức Phi chính phủ như: tổ chức Nhân quyền quốc tế, tổ chức Ân xá thế giới, tổ chức Phóng viên không biên giới, Văn bút quốc tế vv.. là cầu nối không thể thiếu trong việc tố cáo, lên án chế độ cũng như vận động sự ủng hộ đối với PTDC Việt Nam.

Hoạt động tố cáo, lên án chế độ đã được thực hiện bằng các phương thức phong phú, đa dạng với ý thức cao của những người tham gia. Từ những buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ, các tấm Pa-no hình ảnh Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng trong phiên toà, tới những cuộc biểu tình phản đối ông Nguyễn Minh Triết tới thăm Mỹ…vv thật sự là những hình ảnh sôi nổi, hiệu quả và vô cùng có ý nghĩa.

Không chỉ có vậy, những hoạt động tố cáo, lên án chế độ được thưc hiện bảo đảm tính kịp thời, nóng hổi và có tính chất thời sự. Những sự việc thông thường xảy ra được đưa tin ngay trong ngày hoặc sau một ngày. Những sự việc quan trọng, nóng bỏng như các phiên toà xử các nhà Dân chủ, các cuộc biểu tình, việc bắt giữ các nhà Dân chủ vv… được truyền tin và tường thuật tại chỗ. Thậm chí các cuộc phỏng vấn với người đấu tranh Dân chủ được thực hiện ngay tại đồn công an nơi họ đang bị giam giữ.

Cũng như những nội dung khác, những hoạt động này có những giới hạn cần phải làm rõ để cân đối các ưu tiên trong cac nội dung hoạt động của PTDC. Trước hết, tuy những dẫn chứng về sự đàn áp nhân quyền, dân chủ mà PTDC có được và tố cáo với quốc tế rất sống động và đắt giá nhưng áp lực lên Nhà cầm quyền VN lại rất hạn chế. Điển hình là tấm Pa-nô Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng tại phiên toà được quảng bá rộng rãi vậy mà VN vẫn được bầu vào ghế Uỷ viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc không có một phiếu chống! Thứ hai, xu hướng hợp tác toàn diện của Mỹ đối với VN đang ngày càng hiện rõ. Sự quan tâm của Mỹ tới vấn đề Dân chủ, Nhân quyền thời gian vừa qua mang nhiều tính hình thức cũng như tính chất xoa dịu đối với PTDC sau một đợt đàn áp khốc liệt.

Có một vài điều tôi nghĩ chúng ta cần lưu ý trong việc vận động, tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Đó là họ chỉ quyết liệt trong việc làm giảm nhẹ sự đàn áp của Chính quyền với PTDC và họ rất hạn chế và thụ động trong việc ủng hộ cũng như áp lực để tác động tới tiến trình Dân chủ hoá của chúng ta. Chúng ta có nhiều dự án, lộ trình, kế hoạch cần sự giúp sức của quốc tế nhưng đều khó thành công vì đã đẩy quốc tế vào tình thế mà nhà cầm quyền VN lên tiếng “can thiệp vào công việc nội bộ của VN”. Những khó khăn trong việc vận động Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua Dự luật Nhân quyền hiện nay là một minh chứng rất rõ ràng trong việc quốc tế muốn tránh tiếng “can thiệp vào công việc nội bộ của VN”. Vì vậy dự án Kiến nghị quốc tế việc Giám sát và Chống thất thoát trong sử dụng Viện trợ nước ngoài tai VN vừa qua có ưu thế vượt trội tất cả các dự án khác ở chỗ quốc tế có thể can thiệp, tác động vào tình hình VN một cách chính đáng, mạnh mẽ mà Nhà cầm quyền VN không thể nói rằng họ can thiệp vào công việc nội bộ của VN.

3/ Những hoạt động với mục tiêu tập hợp lưc lượng, kết hợp giữa những người đấu tranh Dân chủ
Những hoạt động tập hợp lực lượng, kết hợp giữa những người đấu tranh Dân chủ là những hoạt động quan trọng nhất của PTDC. Đây chính là nơi cuộc đọ sức diễn ra gay go, quyết liệt nhất giữa PTDC và Nhà cầm quyền VN. Việc thắng thua, thành bại, hay dở của mỗi bên đều được quyết định rõ ràng trong lĩnh vực này. Chúng ta có thể thấy rằng, qua thời gian Nhà cầm quyền đã phải rút lui khỏi hai trận tuyến lớn là những nội dung nâng cao Dân trí, kích thích tinh thần yêu nước, động viên giới trí thức, nhất là giới trẻ tham gia vào PTDC và nội dung tố cáo, lên án chế độ cũng như việc liên hệ, tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế. Để nhận thúc rõ điều này chúng ta biết rằng những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, chỉ một bài viết với một trong hai nội dung vừa nêu thì tác giả đã phải ngồi tù. Từ năm 2000 tới khoảng năm 2005, những người vừa viết bài, vừa có liên hệ với PTDC hải ngoại và quốc tế đã lần lượt vào tù. Và đến nay những nhà dân chủ chỉ có tham gia hai nội dung này thì gần như chắc chắn không phải ngồi tù.

PTDC Việt Nam ngay từ những ngày đầu đã có ý thức và cố gắng trong mục tiêu tập hợp lực lượng. Từ những kháng nghị thư có hai, ba người ký tên đến những nhóm này, nhóm kia, Uỷ ban, Cao trào…và đến Hội Chống tham nhũng năm 2001. Đến thời điểm năm 2006 thì một loạt các tổ chức ra đời. Nếu nhìn thẳng vào sự thật là những tổ chức được hình thành giai đoạn này đến nay chỉ còn là hình thức thì chúng ta phải công nhận với nhau là mục tiêu kết hợp, tập hợp lực lượng của PTDC từ trước tới nay chưa thành công. Có những nguyên nhân sau dẫn tới tình hình này là:
- Một, chúng ta chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của mục tiêu tập hợp lực lượng. Vấn đề ở đây không phải khía cạnh tầm quan trọng của tổ chức với bản thân PTDC (điều này hầu như ai cũng có thể nhận thấy) mà tầm quan trọng đối với tiến trình Dân chủ hoá đất nước cũng như đối sách của Nhà cầm quyền VN ngăn chặn mục tiêu này. Nếu như trong số tất cả các tổ chức được thành lập giai đoạn Cao trào 2006 chỉ cần một tổ chức nhận thức được rằng việc tổ chức của mình tồn tại công khai, hoạt động bình thường được sẽ là bước ngoặt quan trọng nhất để thay đổi chế độ thì sự chuẩn bị và tiến hành lập tổ chức sẽ khác hẳn và đến nay chúng ta đã có một cục diện khác.

- Hai, chúng ta chưa có sự thống nhất trong hành động và phương thức kết hợp, tập hợp lực lượng. Vấn đề tập hợp lực lượng là bước đột phá quan trọng nhất, mấu chốt cho thành công của PTDC. Vì vậy Nhà cầm quyền VN sẽ tìm mọi cách, mọi thủ đoạn ngăn chăn đàn áp để không cho các nhà Dân chủ tập hợp lại với nhau. Khi Nhà cầm quyền VN đã dùng mọi biện pháp, mọi thủ đoạn thì PTDC cũng phải tập hợp tất cả các sức mạnh, khả năng, sự hỗ trợ của quốc tế vào mục tiêu này mới có hy vọng thành công. Đồng thời phương thức kết hợp là công khai để đạt mục tiêu hoạt động là công khai hay hoạt động bí mật hay nửa bí mật. Và chúng ta cần một tổ chức hay cần nhiều tổ chức là những điều mà PTDC chưa thống nhất được với nhau.

Đây là lý do quan trọng nhất lý giải cho việc chưa thành công của PTDC trong mục tiêu tập hợp lực lượng.

- Ba, hiệu quả trong đối sách của Nhà cầm quyên VN trong việc ngăn chặn, đàn áp các cố gắng kết hợp của PTDC Việt Nam. Nói gì thì nói, sau 32 năm trong đó có những giai đoạn rất thuận lợi, PTDC Việt Nam vẫn chưa có được một sự kết hợp làm điểm tựa, tụ điểm cho nhưng khát vọng tự do, dân chủ chính là do những nỗ lực ngăn chặn, đàn áp của Nhà cầm quyền VN. Những chiến thuật làm biến chất các tôn giáo, cài cắm người vào PTDC cả trong và ngoài nước gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ PTDC và đặc biệt đối với Giáo Hội Phật giáo VN Thống nhất họ dùng chiến thuật trong đánh ra, ngoài đánh vào vô cùng thâm độc đã chứng tỏ PTDC Việt Nam có một đối thủ vô cùng lợi hại. Chúng ta cần phải nhận thức, đánh giá đúng đối thủ mới hy vọng chiến thắng trong cuộc vận động Dân chủ đầy cam go này.

Trong thời điểm hiện nay, khi mà những người quyết tâm nhất trong mục tiêu tập hợp lực lượng đã bị bắt, khi mà quy luật tạm lắng đang diễn ra sau một cao trào bị đàn áp khốc liệt, vấn đề kết hợp giữa những người dân chủ đang gặp khó khăn và thử thách. Trong khi đó Nhà cầm quyền VN lại đang thực hiện nhiều âm mưu, quỷ kế rất đáng ngại nhằm khống chế, biến chất PTDC trong nước cũng như PTDC Việt Nam nói chung.


Phần II: Một chiến lược đáng sợ

Trong lịch sử ngành an ninh VN, một trong những nghiệp vụ hay “chiến thuật” thành công nhất là cài cắm người vào hàng ngũ đối phương. Trong hai cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua, chiến thắng của Cộng sản VN mang đậm dấu ấn của chiến thuật này. PTDC nếu không nhìn nhận đúng chiến lược tấn công của an ninh VN chủ yếu dựa vào chiến thuật cài cắm người chắc chắn sẽ nhận thất bại đau đớn. Đến thời điểm này mục đích của việc cài cắm người vào PTDC Việt Nam có thể không chỉ còn là thu thập thông tin, gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ phong trào nữa mà phải chăng đã chuyển sang một chiến lược hoàn toàn mới. Đó là khống chế PTDC trong nước làm cơ sở cho việc chuyển đổi chế độ sang một cấu trúc toàn trị mới. Có nhiều cơ sở và chỉ dấu để xây dựng nên giả thiết này. Trước hết tôi xin đi vào những lý do hay những cơ sở cũng như những chỉ dấu mà Nhà cầm quyền VN có thể đang suy tính tới việc chuyển đổi chế độ sang một cấu trúc toàn trị mới.

1/ Những lý do và cơ sở cho việc chuyển đổi mô hình toàn trị

Trong những bài viết trước, tôi có nhận định rằng việc chuyển hoá chế độ hiện nay sang một thể chế Dân chủ bằng con đường hoà bình không thể do ĐCS và Nhà nước VN chủ động thực hiện. Lý do là lợi ích quá lớn trong việc duy trì chế độ cũng như sự an toàn của ĐCS và cá nhân các quan chức không cho phép họ chủ động chuyển hoá chế độ sang một thể chế Dân chủ thực sự. Chính vì vậy việc chuyển đổi mô hình toàn trị này là chuyển từ mô hình toàn trị độc đảng sang mô hình toàn trị dựa trên liên minh Tiền - Quyền khoác chiếc áo Dân chủ nửa vời và hình thức. Mặt khác, sự chuyển đổi này (dù chỉ khoác áo Dân chủ nửa vời và hình thức) chỉ xảy ra khi các lợi ích và sự an toàn của liên minh Tiền - Quyền được bảo đảm và bảo vệ. Có những lý do và cơ sở cho việc chuyển đổi mô hình toàn trị như sau:

- Yêu cầu nội tại của việc phát triển kinh tế và hội nhập: Để duy trì một mức tăng trưởng khá cao như hiện nay, nền kinh tế đã phải hội nhập sâu rộng và thực hiện các luật chơi chung của thế giới. Một khi nền kinh tế vận hành theo những luật lệ chung của nền kinh tế thị trường thì các lĩnh vực khác như hành chính, xã hội, chính trị cũng phải có những chuyển đổi mới bảo đảm sự vận hành các nguyên tắc của thị trường. Lý do này mang rất nhiều tính lý thuyết nhưng cũng được đề cập tới vì phản ánh nguyện vọng của một bộ phận doanh nghiệp làm ăn chân chính và những người có tâm trong bộ máy hành pháp.

- Mong muốn thay đổi ở chính những nhóm người có tiếng nói quyết định đường hướng, tương lai của ĐCS và Nhà nước VN. Mong muốn thay đổi này có thể xuất phát từ nhiều lý do: từ cảm giác quá đủ với khối tài sản thu được qua quá trình tham nhũng, từ cảm giác bức bối, không thể chịu nổi với môi trường sống tự nhiên và xã hội hiện nay. (Vì tuy có tiền và có quyền nhưng những cá nhân này và gia đình vẫn phải sống trong môi trường ô nhiễm, nạn tắc đường, thực phẩm không vệ sinh, an toàn…) hay đơn giản là thỉnh thoảng lương tâm trỗi dậy. Tuy nhiên những mong muốn này chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ để những mong muốn này biến thành chiến lược hành động phải là niềm tin, niềm tin vào lợi ích và sự an toàn được bảo đảm và bảo vệ sau khi thực hiện việc chuyển đổi mô hình toàn trị.

- Niềm tin vào tương lai: Có thể nói rằng những thay đổi của nước Nga từ mấy năm trở lại đây đã truyền cảm hứng rất lớn cho những nhóm quyền lực ở VN, nhất là những người xuất thân và đang trong ngành an ninh. Sự quay trở lại mô hình toàn trị sau cuộc cách mạng Dân chủ thực sự ở Nga đã gây dựng một niềm tin rất lớn cho việc chuyển đổi mô hình toàn trị của VN. Không những thế, những kinh nghiệm thực tiễn trong việc giúp đỡ đảng Nhân dân Cam-pu-chia giữ vững quyền lực, khống chế được chính trường Cam-pu-chia đã tiếp thêm sức mạnh cho quyết tâm chuyển đổi này (sở dĩ Trung quốc không thể tranh giành ảnh hưởng được với VN ở Cam-pu-chia là vì lý do này cũng như ở Lào là do VN đã giúp nhóm thân VN trong đảng Nhân dân Cách mạng Lào giữ vững quyền lực).

2/ Những chỉ dấu góp phần xây dựng giả thiết chuyển đổi mô hình toàn trị

Trước hết việc đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ trong thời gian gần đây của Nhà nước VN là một chỉ dấu quan trọng. Việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng như đẩy mạnh hợp tác với các nước Phương tây tất yếu sẽ dẫn tới thể chế Dân chủ ít nhất là về mặt hình thức . Thời gian gần đây, việc ngầm cho thanh niên, sinh viên biểu tình phản đối Trung quốc về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa của Nhà cầm quyền VN là một phản ứng mới. Điều này ít nhiều đã thể hiện động thái ngả theo Phương tây, đồng thời gián tiếp tạo ưu thế cho nhóm thân Phương tây trong nội bộ ĐCS Việt Nam.

Thứ hai, Trong thời gian mấy năm trở lại đây, một số người thuộc các tổ chức Dân chủ hải ngoại về nước hoạt động bị bắt đều bị gán cho nhãn “khủng bố”. Điển hình nhất là một số người của đảng Việt Tân vừa bị bắt thời gian qua. Đây là việc rất không bình thường bởi vì từ lâu cả phong trào Dân chủ và Nhà cầm quyền VN đều hiểu rõ những hoạt động vũ trang, bạo lực không còn được ủng hộ và tiến hành bởi các tổ chức. Mặt khác, có rất nhiều tội danh khác có thể gán cho những người của Việt Tân bị bắt nhưng Nhà cầm quyền không làm vậy. Thậm chí họ còn làm một động tác rất lố bịch về khẩu súng để cố gắn, khép các hoạt động của Việt Tân vào việc “khủng bố”. Không thể có một giải thích nào khả dĩ hơn giải thích sau: Nhà cầm quyền VN đã làm như vậy để trong tương lai họ không phải đối thoại, thương lượng và thoả hiệp với các tổ chức “khủng bố”. Thực chất, đó là những tổ chức có tiềm lực và chống Cộng quyết liệt.

Thứ ba, Một chỉ dấu rất quan trọng nữa là việc đẩy mạnh cài cắm người vào PTDC trong vài năm gần đây và cả hiện nay. Trước khi phân tích vấn đề này, tôi có một lời xin lỗi những ai là người Dân chủ thực sự, nằm trong sự nghi ngờ mà những phân tích của tôi đưa ra. Tôi không nhằm vào bất kỳ một cá nhân nào mà chỉ vì đây là một vấn đề rất hệ trọng của PTDC mà tôi buộc phải nêu ra. Có hai dạng Dân chủ hai mang, đó là người được chủ động cài cắm vào và người của PTDC bị khống chế. Người được cài cắm có hai loại, loại có nghiệp vụ an ninh và loại bình thường mà bên hình sự gọi là đặc tình. Người của PTDC bị khống chế vì nhiều lý do nhưng chủ yếu là sợ tù đầy. Việc cài cắm người của an ninh VN được thực hiện từ rất sớm (từ năm 54 di cư ra nước ngoài) và bùng nổ trong cao trào Dân chủ 2006. Những người Dân chủ hai mang hiện nay có không gian hoạt động rộng rãi, không đơn thuần thực hiện việc cung cấp thông tin hoặc gây mâu thuẫn chia rẽ trong nội bộ PTDC nữa mà là xây dựng quan hệ, uy tín để chuẩn bị cho một chiến lược lớn là chuyển đổi mô hình toàn trị. Chúng ta không loại trừ những người này sử dụng khổ nhục kế vì ngoài tù đày ra thì khổ nhục kế là biện pháp gây uy tín nhanh và mạnh nhất.

Làm thế nào để phát hiện ra người Dân chủ hai mang? Đây là vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp và tế nhị. Lý do quan trọng nhất là những hoạt động “Dân chủ” của họ thì mọi người đều biết nhưng còn khía cạnh hai mang thì rất khó để ai biết được. Hơn nũa ngoài việc những người này rất kín đáo, kín kẽ ra thì một số người Dân chủ hai mang bị khống chế đã không tuân thủ hoàn toàn sự khống chế và có những hành động như để chuộc lại những việc làm không đúng đắn của mình. Tuy nhiên, mức độ triệt để trong đàn áp của Nhà nước VN chính là những gợi ý cho việc phát hiện những kẻ nằm vùng này.

An ninh VN sẽ sử dụng những người hai mang này như thế nào trong việc chuyển đổi mô hình toàn trị? Những người này sẽ thâm nhập vào các tố chức, thậm chí lập ra tổ chức, dùng “uy tín”, “ảnh hưởng” của mình tập hợp những người Dân chủ mới tham gia, chưa có kinh nghiệm, quan điểm chưa định hình rõ nhằm khống chế về đa số, làm “mềm” hoá các quan điểm Dân chủ. Khi những người này đã khống chế được đa số và làm biến chất các quan điểm Dân chủ thực sự trong các tổ chức, cùng với một số cá nhân, tổ chức khác (có thể cả hải ngoại) không có hoặc không giữ được lý tưởng Dân chủ thực sự thống nhất được “quan điểm Dân chủ” thì tiến trình chuyển đổi sẽ diễn ra. Đương nhiên, những tổ chức và cá nhân Dân chủ thực sự, nhất là ở Hải ngoại sẽ có cách để bị gạt ra ngoài hoặc ít nhất là mất lợi thế trong một thời gian dài.

Trên đây là những phân tích về cơ sở, lý do và những chỉ dấu có thể có của một chiến lược đáng sợ của Nhà cầm quyền VN. Rất khó để có kết luận về quá trình chuyển đổi này, nhưng có một điều chắc chắn, PTDC cần đặc biệt lưu ý: Chỉ cần với số lượng người mà an ninh VN cài cắm và khống chế được hiện nay, trong những trường hợp cần thiết phải huy động phần lớn số đó, Nhà cầm quyền VN đã có thể triệt tiêu phần lớn sức mạnh của PTDC trong bất cứ kế hoạch nào.


Phần III: Con đường của chúng ta

Qua một thời gian quan sát và suy ngẫm, tôi nhận thấy PTDC Việt Nam chưa xây dựng được một đường hướng chung, rõ ràng làm cơ sở cho những kế hoạch, con đường, chiến lược của các cá nhân, tổ chức và cả PTDC. Đó chính là những vấn đề mà bất cứ một cá nhân, tổ chức nào cũng đều phải suy nghĩ, tính tới để đặt mục tiêu, kế hoạch để dự liệu và phối hợp trong hoạt động nhằm đưa PTDC phát triển lên một tầm cao mới. Tôi cho là tương lai của PTDC sẽ phụ thuộc vào việc PTDC Việt Nam có xây dựng được một đường hướng chung trên cơ sở mỗi một cá nhân, tổ chức, PTDC trong nước, PTDC hải ngoại sẽ trả lời bốn câu hỏi (vấn đề, nội dung) sau:
1- Trong tương lai có hay không một cuộc nổi dậy, xuống đường của Nhân dân làm sụp đổ chế độ Cộng sản Việt Nam hay ít ra là bắt buộc ĐCS và Nhà nước VN nhượng bộ và từ nhượng bộ đó sẽ thay đổi chế độ;
2- Có hay không một sự chuyển đổi hình thức toàn trị của Nhà cầm quyền VN? nếu có thì chúng ta có đối sách như thế nào?
3- Chúng ta có nhất thiết phải có một tổ chức công khai của những người Dân chủ trong nước hay không? nếu có thì thực hiện bằng cách nào?
4- Mối tương quan, phối hợp của cá nhân, tổ chức và PTDC trong nước với cá nhân, tổ chức và PTDC hải ngoại như thế nào cho hiệu quả? Đương nhiên sau đây sẽ là câu trả lời của cá nhân tôi về bốn vấn đề, nội dung này.

1/ Trong tương lai có hay không một cuộc nổi dậy, xuống đường của Nhân dân Việt Nam.
Trước khi đi vào nội dung này có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất, các cuộc nổi dậy của Nhân dân thường có hai loại, một loại dự đoán được và một loại không thể dự đoán. Loại dự đoán được thường có chung một số yếu tố, kết hợp với thời cơ mang tính khách quan điển hình là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt Nam. Loại không dự đoán được như indonexia, từ cơn bão về tài chính tiền tệ sụp đổ về kinh tế kéo theo sự sụp đổ của chính phủ. Kể cả đối với VN, nếu như có một cuộc suy thái kinh tế toàn cầu bất ngờ xảy ra tác động vào nền kinh tế VN vốn rất phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới, dẫn tới sụp đổ nền kinh tế và xảy ra động loạn về chính trị - thì đó là những cuộc nổi dậy không thể dự đoán được. Như vậy việc trả lời cho câu hỏi (nội dung) này chính là việc tìm ra những yếu tố chung cho các cuộc nổi dậy có thể dự đoán được và đối chiếu vào với trường hợp của Việt Nam. Các chiến lược, kế hoạch của các cá nhân, tổ chức cần phải dựa vào việc trả lời câu hỏi có thể dự đoán được. Còn một cuộc nổi dậy không thể dự đoán được chỉ lên đặt trong các kế hoạch và chiến lược dự phòng. Thứ hai, có nhiều người đã nói, đã gọi cuộc cách mạng Dân chủ Việt Nam là cuộc cách mạng sắc màu. Đây là điều hoàn toàn không đúng. Các cuộc cách mạng sắc màu ở Ucraina, Grudia vừa qua hoàn toàn khác với cuộc cách mạng đang và sẽ diễn ra ở Việt Nam bởi vì các cuộc cách mạng sắc màu đó diễn ra ở các đất nước đã có khung pháp lý Dân chủ (mặc dù chưa hoàn chỉnh) và nhân dân ở các nước đó đã sống trong không gian Dân chủ một thời gian. Nhưng ở Việt Nam thì hoàn toàn chưa có hai yếu tố này. Vậy nên nếu muốn so sánh thì so sánh với cuộc cách mạng Dân chủ ở Liên xô và Đông Âu.

Thông thường các cuộc nổi dậy của Nhân dân có ba yếu tố không thể thiếu: một là, mong muốn thay đổi chế độ của phần lớn người dân; hai là, có một hay nhiều tổ chức có cùng mục tiêu vận động, kích động, hướng dẫn và tổ chức nhân dân xuống xuống đường, nổi dậy; ba là, yếu tố thời cơ bao gồm những sai lầm trong chính sách cụ thể của nhà cầm quyền tại một thời điểm, những biến động kinh tế-xã hội, những khoảng trống quyền lực vv…Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta có thể lấy cuộc cách mạng tháng Tám làm ví dụ. Mong muốn thay đổi chế độ của phần lớn người dân VN là thoát khỏi ách đô hộ của Thực dân Pháp, muốn nước nhà có độc lập, nhân dân có tự do. Mong muốn này đã có từ rất lâu, nó tiềm ẩn trong mỗi con người VN từ khi còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Và đây là yếu tố quan trọng nhất của cuộc cách mạng tháng Tám. Yếu tố thứ hai, có một hay nhiều tổ chức có cùng mục tiêu vận động nhân dân nổi dậy đó là mặt trận Việt Minh với rất nhiều tổ chức cơ sở đảng ở khắp nơi trên đất nước. Và thời cơ chính là khoảng trống quyền lực sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương.

Đối với tình hình Việt Nam hiện nay ta sẽ xem xét từng yếu tố một.

a- Mong muốn thay đổi chế độ của phần lớn người dân. Đây là vấn đề rất phức tạp. Nếu chỉ nhìn từ bên ngoài hoặc không phân tích thấu đáo từng vấn đề sẽ không thể có kết luận chính xác. Có thể hình dung như sau. Ước muốn thay đổi chế độ của phần lớn người dân đã có nhưng mong muốn thay đổi thì lại chưa có. Tại sao lại như vậy? chúng ta đều hiểu là ước muốn của con người thường là những điều cao đẹp, phần lớn là thoát ly khỏi điều kiện hoàn cảnh và các so sánh lợi ích cụ thể thực tế của cá nhân còn mong muốn là những điều thoát ra từ hoàn cảnh điều kiện thực tế, cụ thể và những cân nhắc lợi ích rất rõ ràng. Nói cách khác, mong muốn có động cơ từ những lợi ích thiết thực, cụ thể. Như vậy ước muốn thay đổi của phần lớn người dân VN có thể bắt nguồn từ những khó khăn, bế tắc của cuộc sống; những cảm nhận mơ hồ về nguyên nhân nỗi thống khổ của người lao động; từ những cảm nhận, bế tắc của chính những người trong guồng máy chính quyền hiện nay; thậm chí từ sự cảm thông với nỗi khổ của người công nhân, nông dân… Nhưng từ ước muốn thay đổi chế độ của phần lớn người dân đến mong muốn thay đổi lại có những khoảng cách và chướng ngại rất khó (nếu không muốn nói là không thể) vượt qua:

- Phần lớn người dân chưa hiểu rõ, đích xác căn nguyên nỗi thống khổ của bản thân và gia đình, tầng lớp, giai cấp mình. Như trên đã nói, phần lớn người dân cảm nhận được những khó nhăn bế tắc trong cuộc sống hiện nay là do chế độ này nhưng để nhận thức rõ, chính xác từ đó hình thành thái độ dứt khoát đối với chế độ hiện nay là rất khó khăn. Có thể có những ví dụ sau: người dân đô thị, người dân nông thôn mất đất cho các khu đô thị, khu công nghiệp đều biết rằng quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá này các cán bộ có tham nhũng, kiếm chác trong các dự án này. Nhưng người ta lại không biết rằng trên bình diện quốc gia, chính sách cướp đất của Nhà nước là để duy trì nỗi thống khổ của họ. Đồng thời người ta cũng không biết rằng mức độ thua thiệt, khổ sở của người dân chính là do sự tranh giành, đồng loã và phân phối lợi ích từ các nhóm quyền lực. Người công nhân cũng không biết rằng, mức lương khốn khổ mà họ nhận được hiện nay chính là do Nhà nước quy định để dùng làm lợi thế thu hút đầu tư nước ngoài. Họ cũng không biết được các công đoàn của Nhà nước chính là để ngăn chặn người công nhân không được chống đối lại giới chủ.

- Tương lai của sự thay đổi hay những sự lựa chọn khác: trong rất nhiều trường hợp, mong muốn thay đổi được thúc đẩy bởi chính các sự lựa chọn khác nhau hay người dân thấy được tương lai của sự thay đổi. Tuy nhiên ở Việt Nam, người dân chưa hề thấy được các dấu hiệu nào của sự thay đổi (các đảng phái thực sự xuất hiện, báo chí tư nhân ra đời và hoạt động…) và hoàn toàn chưa có một sự lựa chọn nào khác ngoài ĐCS và hệ thống chính trị hiện thời.

- Những so sánh lợi ích thiết thực, cụ thể: Đây là lý do quan trọng nhất ngăn chặn ước muốn thay đổi chuyển hoá thành mong muốn thay đổi. Chính tại nút thắt này, Nhà cầm quyền VN đã thành công trong việc giữ vững “ổn định chính trị” trong một thời gian dài. Như trên vừa nói, mong muốn thay đổi có động cơ từ những so sánh lợi ích thiết thực, cụ thể của bản thân cá nhân và gia đình. Có nghĩa là nếu thay đổi chế độ thì tương lai sẽ ra sao, nguồn thu hiện nay của gia đình sẽ lấy từ đâu ra? (có người nói với tôi Cựu chiến binh hiện nay cũng rất căm tức chế độ này nhưng thay đổi nó thì thu nhập của họ trông vào đâu?). Nhà cầm quyền VN đã thực hiện hai chính sách rất thâm độc, xảo quyệt để gắn chặt lợi ích của một bộ phận không nhỏ người dân với sự tồn vong của chế độ này. Đó là chính sách tăng lương cho bộ đội và công an, những công cụ để bảo vệ chế độ và chính sách chi cho yêu cầu chính trị. Việc tăng lương cho bộ đội và công an đã có từ lâu và khá dễ để nhận ra thâm ý bên trong. Còn việc chi cho các yêu cầu chính trị thì rất khó để phát hiện và thấy được sự thâm độc của chính sách này. Chính sách chi cho yêu cầu chính trị được thực hiện bằng các khoản chi thường xuyên (phụ cấp thường xuyên) và chi không thường xuyên. Trong hệ thống chính trị của VN hiện nay, ngoài những đối tượng được hưởng lương chính thức (cán bộ đảng, cán bộ nhà nước) thì còn một hệ thống các tổ chức vệ tinh như Thanh niên, Phụ nữ, Công đoàn, các Hội…Đó là những tổ chức ngoại vi của ĐCS để thực hiện việc giám sát nhân dân và hiện nay còn là đối tượng để chi theo yêu cầu chính trị. Mặt khác, trong những năm gần đây Nhà cầm quyền VN đã thực hiện chính sách chi cho yêu cầu chính trị dưới danh nghĩa cải thiện mức sống cho người có công. Đây là một khoản chi khổng lồ mà Nhà nước VN đã bỏ ra để mua sự “ổn định chính trị”. Chỉ tính riêng năm 2007, Nhà nước dành 10 nghìn tỷ đồng cải thiện mức sống người có công: “Theo bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, với mục tiêu từng bước cải thiện mức sống của người có công với đất nước và cách mạng, trong năm 2007, Nhà nước đã giành hơn 10 nghìn tỷ đồng thực hiện chính sách ưu đãi với hơn 8 triệu lượt người,…” (Báo Nhân dân, ngày 24 tháng 01 năm 2008, trang 1). Trong các khoản chi này chúng ta thấy có những khoản chi rất lạ lùng như chi cho người 20, 30, 40 năm tuổi đảng nhưng đã chết được mấy năm. Nói tóm lại, tổng số người hưởng lương, hưởng phụ cấp thường xuyên và số người hưởng phụ cấp không thường xuyên ở Việt Nam hiện nay đã lên tới con số khoảng 20-30 triệu người. Ngoài ra Nhà cầm quyền VN còn chi cho yêu cầu chính trị bằng các danh nghĩa cho vay xoá đói giảm nghèo, cho sinh viên nghèo vay vốn..

Như vậy điều mà chúng ta, những người Dân chủ cảm nhận được và hay nhắc tới đó là ước muốn thay đổi chế độ của phần lớn dân chúng. Còn mong muốn thay đổi mới chỉ có ở một bộ phận nhỏ người dân vì nhiều lý do, trong đó có lý do quan trọng là Nhà nước VN đã chủ động ngăn chặn bằng những thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt.

b- Có một hay nhiều tổ chức có cùng mục tiêu vận động, hướng dẫn, tổ chức nhân dân. Có thể nhận thấy ngay là ở Việt Nam hiện nay chưa có một tổ chức nào, dù là bí mật hay công khai thực hiện việc vận động và hướng dẫn và tổ chức nhân dân. Có một vài tổ chức đã có cố gắng trong việc tạo lập mối liên hệ với người dân (như cứu trợ đồng bào lũ lụt, gặp gỡ, uý lạo, giúp đỡ “Dân oan”) nhưng đều bị nhà cầm quyền VN đánh phá quyết liệt phải trở lại thế cố thủ. Việc chưa có một tổ chức để vận động cho tự do dân chủ là lẽ đương nhiên trong xã hội XHCN.

c- Yếu tố thời cơ: Thật đau lòng và đáng tiếc trong khi hai yếu tố cơ bản nói trên chưa hình thành thì chúng ta có rất nhiều yếu tố thời cơ xuất hiện. Trong vòng một năm qua (2007) chúng ta đã chứng kiến ba yếu tố thời cơ lớn lần lượt xuất hiện: trước hết là các cuộc biểu tình của “Dân Oan”; cuộc biểu tình của thanh niên-sinh viên chống Trung Quốc thôn tính Hoàng Sa, Trường Sa; cuộc cầu nguyện tập thể của Công giáo đòi lại đất đai của Giáo hội.

- Về phong trào “Dân Oan” hiện nay: Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá hiện nay đang diễn ra ở khắp các địa phương xuất hiện các “Dân Oan”. Các dân oan này phần lớn liên quan đến việc mất đất đai, đền bù không thoả đáng có một con số tuyệt đối là khá lớn. Nhưng bản chất cuộc dấu tranh của họ là đòi quyền lợi cá nhân mình (khi đã được đáp ứng thì không còn mục tiêu đấu tranh) hơn nữa lại chưa có một tổ chức nào có thể đứng ra vận động, hướng dẫn họ đồng thời liên kết các dân oan ở các địa phương lại. Vậy nên PTDC, đương nhiên cần có sự giúp đỡ ủng hộ dân oan, cũng chỉ nên đặt mục tiêu duy trì mối liên hệ và tìm kiếm, phát hiện các nhân tố tích cực kết nạp vào hàng ngũ của mình.

- Cuộc biểu tình của Thanh niên, sinh viên chống Trung Quốc thôn tính Hoàng Sa, Trường Sa: Sự kiện thanh niên, sinh viên biểu tình có ý nghĩa rất lớn trên nhiều khía cạnh. Từ hiệu quả của việc tiếp cận thông tin tự do, việc phá tan nỗi sợ hãi để xuống đường biểu tình thể hiện tinh thần yêu nước, đến việc nhận rõ bản chất của ĐCS và Nhà nước qua việc đàn áp các cuộc biểu tình … Tuy nhiên, ý nghĩa thiết thực nhất lại là qua sự kiện này có một số khá đông thanh niên, sinh viên và trí thức đã và đang sẵn sàng tham gia vào PTDC. Điều đau lòng nhất là những người yêu nước, những người dân chủ lo lắng cho sự toàn vẹn lãnh thổ lại không ở vị thế và có quyền hành để giải quyết vấn đề. Một lo lắng nữa là trong tương lai, khi cuộc cách mạng dân chủ ở VN diễn ra (tôi luôn tin là sẽ trước Trung quốc) nếu Trung Quốc xâm chiếm nốt quần đảo Trường Sa thì chúng ta sẽ làm thế nào và lấy gì để bảo vệ đất nước?!?

- Cầu nguyện tập thể đòi lại đất đai của Giáo hội Công giáo: Một sự kiện lạ lùng và bất ngờ. Trên khía cạnh ngòi nổ cho cuộc cách mạng Dân chủ thì sự kiện này phải được đặt cao hơn hai sự kiện trên. Một mặt, đây là nguyện vọng và đòi hỏi chính đáng của một tổ chức chặt chẽ, có hơn 6 triệu thành viên, lại có sự ủng hộ của một tổ chức quốc tế có một tỷ người trên khắp thế giới. Mặt khác tính chất nan giải trong việc giải quyết thoả đáng sự việc cũng hứa hẹn những biến động không nhỏ trong tương lai. Tuy nhiên diễn biến của sự việc này phụ thuộc vào hai yếu tố quan trọng. Thứ nhất, sự đoàn kết cao và kiên trì trong hàng ngũ Giáo phẩm của Giáo hội Công giáo VN và thứ hai, cách thức giải quyết, ứng xử của Nhà nước Việt Nam. Yếu tố thứ nhất vẫn là một ẩn số bởi những thủ đoạn và việc sử dụng những người cài cắm và khống chế được của Nhà nước VN. Yếu tố thứ hai hoàn toàn nằm trong tay Nhà nước Việt Nam. Một khi đã nằm trong tay Nhà nước Việt Nam thì rất khó có sai sót xảy ra bởi vì họ cũng hiểu nhanh và rõ ràng vấn đề hệ trọng này. PTDC Việt Nam cần có tiếng nói ủng hộ cuộc đấu tranh ôn hoà và chính đáng của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Cá nhân tôi xin thắp một ngọn nến cầu nguyện để Nhà cầm quyền VN trả lại đất đai cho Giáo hội Công giáo.

Một khía cạnh nữa để thấy được những khó khăn trong việc nổi dậy của Nhân dân là so sánh với các nước Đông Âu trong cuộc cách mạng Dân chủ. Cuộc cách mạng của các nước Đông Âu thành công đã có hai nguyên nhân trực tiếp và hai nguyên nhân gián tiếp mà Việt Nam không có. Hai nguyên nhân trực tiếp là cuộc cách mạng Dân chủ Đông Âu nằm trong một chiến lược toàn cầu của Mỹ và đồng minh trong việc giải thể các chế độ Công sản, và cam kết của Liên Xô không sử dụng vũ lực để bảo vệ các Nhà nước Cộng sản ở Đông Âu. Hai nguyên nhân gián tiếp là nhân dân các nước Đông Âu trước khi đi theo chủ nghĩa Cộng sản đã có một không gian dân chủ nhất định và các nước này nằm cạnh các nước Dân chủ ở Châu Âu.

Tựu trung lại, câu trả lời cho vấn đề thứ nhất có hay không một cuộc nổi dậy của nhân dân là: trong khả năng có thể dự đoán được sẽ không có một cuộc nổi dậy của Nhân dân bởi vì chưa có đủ các yếu tố cho một cuộc nổi dậy của toàn dân. Nhưng những diễn biến gần đây (năm 2007) có thể gợi ý cho một cuộc nổi dậy bất ngờ của Nhân dân nếu có thêm một yếu tố nữa: Suy thoái kinh tế toàn cầu.

2/ Có hay không một cuộc chuyển đổi hình thức toàn trị của Nhà cầm quyền VN?

Câu trả lời là có. Thời gian và kịch bản của quá trình chuyển đổi này vẫn là một ẩn số. Việc chuyển đổi này sẽ diễn ra với một điều kiện tiên quyết là bảo đảm và bảo vệ lợi ích và sự an toàn của các nhóm quyền lực hiện nay. Như vậy thực chất là các nhóm quyền lực này vẫn gĩư được quyền lực. Điều này đồng nghĩa với việc sẽ không có chỗ cho lý tưởng Dân chủ thực sự. Chúng ta hãy nhìn vào quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, kinh tế quốc doanh vẫn là chủ đạo. Một nền kinh tế không phải kế hoạch, cũng chẳng ra thị trường - một mớ hỗn độn. Một sự chuyển đổi về chính trị, nếu cũng do ĐCS chủ trương cũng sẽ có một kết cục tương tự. Phong trào Dân chủ cần phải làm gì? Trước hết chúng ta cần phải làm một điều gì đó trước khi quá trình này diễn ra để có được thế chủ động. Sau nữa cần nhận thức được sự phân hoá trong PTDC chắc chắn sẽ xảy ra. Cuối cùng, những cá nhân và tổ chức thực sự vì lý tưởng Dân chủ cần nhanh chóng liên kết tạo ra sức mạnh để đối phó với nhà cầm quyền VN trong “ván bài dân chủ” của họ.

3/ Một tổ chức công khai của những người Dân chủ?

Như trên đã trình bày, trong khả năng dự đoán được sẽ không có một cuộc nổi dậy của Nhân dân. Như vậy chúng ta buộc phải tính tới cách thức đấu tranh để có được sự thoả hiệp, nhượng bộ của ĐCS và Nhà nước VN. Muốn có được sự thoả hiệp, nhượng bộ thì chúng ta phải có sức mạnh, tấn công vào điểm yếu của ĐCS và Nhà nước VN - điều này tất yếu phải có một tổ chức công khai cho những người Dân chủ đấu tranh nhằm vào chỗ yếu nhất của Nhà nước Việt Nam. Trong trường hợp có sự sụp đổ bất ngờ của nền kinh tế dẫn đến sụp đổ chế độ , chúng ta đã có một tổ chức công khai mà PTDC chủ động xây dựng nên, tránh được những kẻ cơ hội và cò mồi của ĐCS Việt Nam. Mặt khác, nếu như chúng ta có đồng thuận trong việc Nhà cầm quyền VN đang suy tính tới một chiến lược chuyển đổi mô hình toàn trị ở Việt Nam thì chúng ta càng cần phải xúc tiến gấp việc có một tổ chức công khai cho những nhà Dân chủ. Như vậy dù tình hình ở phía trước mắt có diễn biến ra sao thì việc có một tổ chức công khai cho các nhà Dân chủ vẫn là yêu cầu bắt buộc để phong trào Dân chủ chủ động đối phó với các diễn biến và thủ đoạn rất cao tay của Nhà nước VN.
4/ Mối quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức và PTDC bên trong và bên ngoài.

Đây là một đề tài tế nhị, ít được nhắc đến. Nhưng nếu né tránh, không thảo luận rốt ráo vấn đề này sẽ dẫn tới những sự ngộ nhận, những khó khăn trong xác lập mối quan hệ trong ngoài và sự phối hợp đem lại hiệu quả cho cả phong trào Dân chủ nói chung. Có những biểu hiện để thấy vấn đề này hoàn toàn không đơn giản. Có tác giả đã viết đại khái là: từ đâu và từ bao giờ người ta lại đặt đầu não của tổ chức ở nơi mà đối phương có thể tiêu diệt… hoặc: hãy từ bỏ ngôn ngữ giả dối trong nước là quyết định, ngoài nước là quan trọng (yểm trợ). Cá nhân tôi cũng được một số tổ chức hải ngoại đề nghị tham gia với nhiệm vụ cụ thể là âm thầm phát triển tổ chức đó ở trong nước. Nhìn nhận kỹ càng hơn ta có thể thấy hai xu hướng.

Các tổ chức lớn, lâu năm hoạt động tương đối có bài bản thì luôn xác định hải ngoại là quyết định dù có nói ra hay không nói ra (có người đã thẳng thắn nói ra như trên). Các cá nhân và tổ chức nhỏ thì có quan điểm ngược lại. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải xem xét khách quan mối quan hệ, tương quan, sự phối hợp giữa các cá nhân, tổ chức và PTDC trong nước và hải ngoại. Ở đây cần phân định rõ các nội dung. Khi nói tới yếu tố quyết định tôi hiểu thế này. Những cá nhân, tổ chức và phong trào Dân chủ trong nước là đối tượng quản lý trực tiếp hay có thể nói là nạn nhân trực tiếp của chế độ độc tài đảng trị. Việc đấu tranh của họ trước hết là để tự giải phóng bản thân và gia đình và sau là đồng bào mình khỏi chế độ độc tài.. Và họ chính là chủ thể của cuộc đấu tranh Dân chủ này. Những cá nhân, tổ chức và phong trào Dân chủ hải ngoại có thể trong quá khứ có nhiều cá nhân đã từng là nạn nhân của chế độ độc tài đảng trị. Nhưng sau một thời gian sống ở nước ngoài thì họ chỉ bị ảnh hưởng gián tiếp của chế độ độc tài đảng trị trong nước (không được về thăm quê hương, gia đình họ hàng, ban bè là nạn nhân trực tiếp…) vì vậy mục đích đấu tranh không phải là tự giải phóng mà chỉ là vì nghĩa lớn đối với quê hương, đất nước..

Yếu tố quyết định là đấu tranh cho mình, vì mình. Còn vấn đề đặt đầu não của tổ chức ở đâu để bảo đảm an toàn chỉ là một khía cạnh nhỏ của tổ chức. Sẽ có người lập luận rằng chỉ có những người trong nước hàng ngày, hàng giờ chịu sự quản lý, đối diện với Nhà cầm quyền VN, sống cùng người dân thì mới có được những chiến lược, sách lược, kế hoạch chuẩn xác kịp thời phù hợp với tình hình. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra quan trọng hơn lý thuyết. Hiện nay, theo suy nghĩ cúa cá nhân tôi đang có xu hướng là tất cả các tổ chức trong và ngoài nước dường như đang rất hài lòng với tổ chức của mình và đặt vấn đề phát triển tổ chức của mình lên trên mọi nhiệm vụ khác. Điều này là đúng và lý tưởng nếu như trong tương lai xảy ra tình huống sau: ĐCS Việt Nam đột nhiên tuyên bố Việt Nam chuyển sang chế độ đa nguyên đa đảng và mời tất cả các tổ chức đăng ký công khai và chuẩn bị cho một cuộc tổng tuyển cử tự do. Còn trường hợp phải đấu tranh quyết liệt, gian khổ để các tổ chức, đảng phái có được chỗ đứng trong nền chính trị đa nguyên thì xu hướng này thật đáng lo ngại. Một xu hướng nữa là do lo ngại cho những người trong nước có thể bị đàn áp, các tổ chức ở hải ngoại chủ yếu phát triển tổ chức một cách bí mật. Phương thức này gặp hai khó khăn trở ngại lớn. Thứ nhất sẽ rất khó khăn, thu hút, kết nạp thêm người vì việc nhận thức ý nghĩa, sự cần thiết tham gia vào tổ chức , đảng phái khó khăn bao nhiêu đối với người dân thì ngược lại họ dễ dàng nhận thấy sự nguy hiểm khi tham gia vào các tổ chức bí mật bấy nhiêu. Thứ hai, đây là lỗ hổng chết người để an ninh Việt Nam cài người vào các tổ chức. Cá nhân tôi cho rằng, nếu như các tổ chức ở hải ngoại bí mật phát triển ở Việt Nam thì số người của an ninh Việt Nam trong đó ít nhất cũng phải trên 50%. Giải thích điều này không khó. Phần lớn những người tham gia đấu tranh Dân chủ là vì tấm lòng, họ không được đào tạo (và nếu có đào tạo thì cũng rất sơ sài) tất cả các nghiệp vụ để hoạt động bí mật. Trong khi đó, Nhà nước VN có nhiều cơ quan tình báo, phản gián với đầy đủ nghiệp vụ và phương tiện trong tay thì làm sao họ lại không phát hiện được các tổ chức hoạt động bí mật. Tuy nhiên, nguyên tắc của họ là âm thầm theo dõi và cài cắm người vào các tổ chức đó. Trường hợp cần thiết như vụ việc các đảng viên cao cấp của Việt Tân về nước hoạt động, họ mới ra tay (hoặc như các vụ việc của tổ chức Việt Nam Tự do của ông Nguyễn Hữu Chánh đều bị phát hiện và vô hiệu hoá).

Chính vì các lý do trên, nên chăng các tổ chức cần hướng mục tiêu vào các hoạt động để được công nhận sự tồn tại của các tổ chức, đảng phái trước khi tìm kiếm lợi thế cho tổ chức của mình. Trong vấn đề này, như nội dung thứ ba đã đề cập về việc cần có một tổ chức công khai, các tổ chức cần xem xét để ủng hộ, thúc đẩy việc hình thành một tổ chức công khai trong nước (có thể một tổ chức, đảng phái đã có sẵn ra công khai). Một tổ chức công khai trong nước là tiền đề, cơ sở cho việc công nhận tất cả các tổ chức, đảng phái khác.

*Về dự án: “Giám sát và chống thát thoát
trong sử dụng viện trợ nước ngoài tại Việt Nam”

Tôi xin trình bày thật ngắn gọn một lần nữa dự án này vì thật ngạc nhiên đến nay có những người vẫn không hiểu được thật đúng và đầy đủ dự án. Làm việc này tôi không hy vọng nhiều vào sự thay đổi nhận thức của mọi người mà chỉ yên tâm cho bản thân mình vì đã cố gắng hết mọi khả năng.

Trước hết và trên hết, đây là một dự án giám sát các nguồn viện trợ nước ngoài để sử dụng đúng mục đích và không bị thất thoát. Việc giám sát và chống thất thoát trong sử dụng viện trợ nước ngoài tại VN đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia: các Chính phủ Dân chủ, các Định chế tài chính quốc tế; Nhà nước Việt Nam; Nhân dân Việt Nam. Khi thực hiện thành công dự án này sẽ xuất hiện các lợi thế lớn cho PTDC bởi vì việc chống tham nhũng là việc bất khả thi của ĐCS và Nhà nước VN. Đồng thời nếu như có một hội như Hội bảo vệ các nguồn Viện trợ nước ngoài tại Việt Nam được thành lập sẽ là tiền đề cho một tổ chức công khai của những người Dân chủ.

- Những ưu thế lớn của Dự án: Như trên đã trình bày, dự án này có một ưu thế lớn là sự chính đáng, hợp lý, hợp tình. Đồng thời việc đề nghị sự giúp đỡ của quốc tế khác với hầu hết các dự án mà PTDC đã và đang đưa ra. Đó là sự giúp sức, can thiệp của quốc tế là không hề bị giới hạn và Nhà nước VN không thể phản đối với lý do muôn thủa “can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam”. Một ưu thế khác là khi thực hiện dự án này, thế chủ động hoàn toàn thuộc về chúng ta và sự giúp sức của quốc tế (cũng là do sự vận động của PTDC). Dù cho Nhà nước Việt Nam có tài giỏi và nỗ lực bao nhiêu thì trong dự án này họ vẫn ở thế bị động. Cuối cùng, như có người đã thừa nhận với tôi, dự án này hoàn toàn nằm trong tầm tay của các tổ chức Dân chủ hải ngoại. Việc thực hiện dự án này so với những công việc họ đã và đang làm không hề khó khăn, phức tạp (chưa nói tới kết quả).

- Khó khăn của Dự án: Khó khăn lớn nhất của Dự án là cần có sự đồng thuận rất cao đối với PTDC, nhất là ở hải ngoại. Bởi vì dự án này đánh trúng vào điểm yếu nhất của ĐCS và Nhà nước VN, là vấn đề sống còn đối với chế độ hiện nay đương nhiên họ sẽ tung hết các khả năng để vô hiệu hoá những cố gắng của PTDC. Như vậy, chỉ có những cố gắng cao nhất của PTDC, với sự tham gia của hầu hết các cá nhân, tổ chức mới hy vọng có thành công. Đó chính là lý do mà những người đưa ra dự án đã gửi dự án tới tất cả mọi tổ chức cá nhân chứ không chuyển riêng cho một vài tổ chức hoặc cá nhân. Vậy nên mong muốn lớn nhất của chúng tôi là Dự án được đưa ra bàn bạc, thảo luận công khai để tìm kiếm sự đồng thuận và sau đó là thực hiện hoặc không thực hiện.

- Những phản biện mà Dự án nhận được:

+ Có người đã viết và nói rằng, do tình trạng tham nhũng ở Việt Nam rất trầm trọng và tất cả đều nằm trong hệ thống Nhà nước nên việc kiến nghị đó là ảo tưởng, không khả thi. Thật đáng tiếc là những người này không đọc kỹ và hiểu đúng các văn bản. Dự án kiến nghị các Chính phủ Dân chủ, các Định chế tài chính quốc tế việc thành lập một cơ quan giám sát độc lập (của quốc tế) đối với các nguồn Viện trợ nước ngoài tại Việt nam. Còn Đơn xin thành lập Hội là có Hội để giúp đỡ Cơ quan Giám sát đó hoạt động cho có hiệu quả chứ không phải Hội đứng ra giám sát. Việc có giám sát được hay không, có hiệu quả hay không không phụ thuộc vào Nhà nước Việt Nam, các cán bộ tham nhũng của Nhà nước Việt Nam mà phụ thuộc vào cơ chế, cách thức giám sát và những người thực hiện việc giám sát.

+ Có những người lại cho rằng, các định chế tài chính quốc tế có nhiều người có trình độ, nghiệp vụ và kinh nghiệm còn không thực hiện nổi việc giám sát thì làm sao dự án này có thể thực hiện thành công được. Xin trả lời rằng, những người thực hiện việc giám sát vẫn là các cán bộ, nhân viên của quốc tế (các chính phủ dân chủ, các định chế tài chính quốc tế vì đó là cơ quan giám sát của quốc tế) với sự giúp sức của người Việt Nam đang sống ở Việt Nam hiểu rõ các thủ đoạn, cách thức mà những người Việt Nam (quan chức) đã và đang sử dụng để tham nhũng. Và tôi khẳng định chúng ta hoàn toàn có thể có cơ chế để giám sát hiệu quả các nguồn viện trợ này.

+ Làm sao để quốc tế giúp sức khi mà mỗi một định chế tài chính đều có cơ quan giám sát, theo dõi riêng đang hoạt động. Trước hết, để có được sự giúp sức của quốc tế trong mối quan hệ với các quốc gia như hiện nay không phải là dễ. Những người đề xuất dự án đều biết rằng, trên bình diện vay nợ của quốc gia thì các khoản vay, viện trợ này của quốc tế là không thể mất được (dù có thay đổi chế độ vẫn phải trả nợ), hơn nữa Việt Nam có được sự quan tâm của quốc tế cũng vì vị thế của Việt Nam trong mối tương quan với Trung quốc. Tuy nhiên, chúng ta cần tác động vào vấn đề lương tâm, danh dự và trách nhiệm của các chủ nợ đối với nhân dân Việt Nam. Đồng thời chúng ta còn có những sự ủng hộ, giúp sức của bạn bè quốc tế, những lực lượng Dân chủ tiến bộ trên thế giới. Còn việc mỗi một định chế tài chính đều có một cơ quan giám sát đang hoạt động riêng biệt, chúng ta có những ví dụ phản biện giá trị như vụ việc PMU18, khi mà cơ quan thanh tra của Ngân hàng thế giới đã có kết luận không có tiêu cực, tham nhũng trong các dự án của PMU18. Ví dụ này mới nhìn vào thấy bất lợi cho dự án (giám sát và chống thất thoát) nhưng thực ra lại là thuận lợi bởi vì việc Bùi Tiến Dũng và PMU 18 tham nhũng thì một đứa trẻ ở Việt Nam đều biết và kết luận của các thanh tra Ngân hàng thế giới không hề khó hiểu. Chúng ta chỉ cần trả lời hai câu hỏi sau là sẽ hiểu ra được vấn đề. Câu 1, các thanh sát viên của Ngân hàng thế giới khi thanh tra các dự án của PMU 18 có cần sự giúp đỡ của các cơ quan hữu trách ở Việt Nam không? Câu 2, nếu như cuộc thanh tra này phát hiện được PMU 18 tham nhũng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn vốn vay, viện trợ của Việt Nam không?

Kết luận:

Cuối bài viết, tôi có đôi lời tâm huyết. Hiện nay chúng ta có những tổ chức ở trong nước, phần nhiều mang tính hình thức. Một sự kết hợp thực sự trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn. Thời gian và cơ hội cho những người có lý tưởng Dân chủ thực sự không còn nhiều. Trong khi chờ đợi một biến động lớn chưa biết khi nào tới thì chúng ta vẫn có có một khả năng tạo được sự đột phá bằng việc cố gắng có một tổ chức công khai của những người Dân chủ. Dự án “Giám sát và Chống thất thoát trong sử dụng viện trợ nước ngoài tại Việt Nam” là một gợi ý. Hoặc nếu có một dự án khác khả thi hơn cũng rất tốt. Tôi rất mong muốn và đề nghị các tổ chức Dân chủ, các cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu bốn vấn đề (nội dung) đã nêu ở trên, thảo luận và đi tới thống nhất một đường hướng chung, rõ ràng cho PTDC nhằm giúp tạo ra bước ngoặt, nâng PTDC lên một tầm cao mới ngõ hầu đạt được kết quả chúng ta hằng mong muốn trong những năm tiếp theo. Tôi vẫn rất hy vọng và tin tưởng một mùa xuân mới của Dân tộc sẽ đến trong một tương lai gần.

Hà Nội, ngày 28/02/2008

Viết từ ngày 08/01/2008 đến ngày 02/02/2008


TRỞ VỀ
TRANG ĐẦU TIÊN



______________________________________________________